Top Google Việt Nam : Làm Biển Quảng Cáo, Mua Bán Ô Tô Cũ, Phong Thủy, Gitizen.info, Blog Thủ Thuật SEO, Quà Tặng Lưu Niệm

Thứ Hai, 21 tháng 7, 2014

Người lao động phải sống được ở quê nhà

>>Lập đội hình phản ứng nhanh hỗ trợ người lao động
>>Giở “chiêu trò” để không tuyển cần lao Việt Nam
>>Tuyển hơn 2.100 lao động Trung Quốc: Mập mờ với người trong nhà

Tấn sĩ Nguyễn Đức Lộc - Ảnh: P.VŨ

Tấn sĩ Nguyễn Đức Lộc - phó trưởng khoa nhân học Trường đại học Khoa học xã hội và nhân bản TP.HCM - trầm mặc nói sau khi đọc loạt bài “Đau xót nạn bóc lột cần lao nhà quê” trên tuổi xanh. Ông đang thực hành nhiều đề tài nghiên cứu, khảo sát xung quanh đối tượng công nhân, người cần lao như: “Xuất cư đối với an sinh hộ gia đình”, “Quản lý rủi ro của người công nhân ở các khu công nghiệp”, “Vì sao công nhân khổ?”, “Bàn chuyện “an cư lạc nghiệp” của người nhập cư”... Trong quá trình nghiên cứu các công trình này, tấn sĩ Nguyễn Đức Lộc thực hiện hàng ngàn cuộc khảo sát, phỏng vấn sâu với những người lao động trong môi trường làm việc tại nơi mưu sinh và cả ở quê hương của họ.

630.000 lao động phổ quát thất nghiệp

Theo Bản tin thị trường cần lao số 2 mới được Bộ lao động - thương binh và xã hội ban bố, trong quý 1-2014 cả nước có trên 1,04 triệu người trong độ tuổi cần lao bị thất nghiệp, tăng trên 145.000 người so với quý 4-2013. Trong số đó có tới 630.000 người thất nghiệp là cần lao phổ quát (không có trình độ chuyên môn kỹ thuật).

Tỉ lệ cần lao thiếu việc làm cũng có thiên hướng tăng. Trong quý 1-2014 có gần 1,3 triệu lao động thiếu việc làm, tăng trên 66.000 người so với quý 4-2013. Tỉ lệ lao động thiếu việc làm ở nông thôn là 3,4%, cao gấp 1,2 lần so với tỉ lệ chung của cả nước. Số giờ làm việc bình quân của nhóm cần lao thiếu việc làm là 22,3 giờ/tuần, chỉ bằng 53% so với số giờ làm việc bình quân chung của lao động cả nước (42,3 giờ/tuần).

L.ANH

Theo Bản tin thị trường cần lao số 2 mới được Bộ cần lao - thương binh và từng lớp ban bố, trong quý 1-2014 cả nước có trên 1,04 triệu người trong độ tuổi cần lao bị thất nghiệp, tăng trên 145.000 người so với quý 4-2013. Trong số đó có tới 630.000 người thất nghiệp là lao động phổ quát (không có trình độ chuyên môn kỹ thuật).

Tỉ lệ cần lao thiếu việc làm cũng có thiên hướng tăng. Trong quý 1-2014 có gần 1,3 triệu cần lao thiếu việc làm, tăng trên 66.000 người so với quý 4-2013. Tỉ lệ lao động thiếu việc làm ở nông thôn là 3,4%, cao gấp 1,2 lần so với tỉ lệ chung của cả nước. Số giờ làm việc bình quân của nhóm cần lao thiếu việc làm là 22,3 giờ/tuần, chỉ bằng 53% so với số giờ làm việc bình quân chung của lao động cả nước (42,3 giờ/tuần).

- Do tính nông nhàn của hoạt động nông nghiệp quá cao, thiếu việc làm nên ngoài lực lượng cần lao vào các thị thành lớn để tìm việc làm ổn định, thời cơ nhập cư, còn xuất hiện một lực lượng lớn lao động thiên di theo mùa vụ. Bên cạnh đó, sự chênh lệch giàu nghèo, khác biệt về mức sống giữa nông thôn và thị thành luôn là động lực thúc đẩy dân cày tìm đến đô thị để mưu sinh.

Nhiều lần đi thực tế ở miền Trung, miền Bắc, tôi thấy nghịch lý: ruộng đất bỏ hoang, thiếu người làm, đến mùa, chủ ruộng phải thuê công cần lao với giá rất cao. Năm ngoái, tôi còn thấy Khu công nghiệp Dung Quất, Quảng Ngãi treo băngrôn kêu gọi người cần lao về đóng góp cho gia đình, quê hương. Nhưng rồi lao động vẫn xuất cư. Nguyên nhân chính là nhu cầu cần lao ở các khu vực này không ổn định. Những việc làm ổn định, thu nhập tốt đòi hỏi trình độ học thức, nghề được đào tạo, còn những nơi không đòi hỏi thì không có việc làm liên tiếp, thu nhập không đủ sống... Từ đó người lao động phải thiên di theo mùa để vào thành phố bán rong, vào Tây nguyên hái cà phê. Tôi cho rằng những người lao động bị bóc lột, bị lừa bán được đề cập trong các bài báo mà tuổi xanh nêu nằm trong số này.

- Chúng tôi có một cuộc khảo sát, thống kê rất kỹ về chủ đề này. Kết quả cho thấy màng lưới xã hội, màng lưới thân thuộc, phi chính thức như gia đình, họ hàng, bạn bè, đồng hương đóng vai trò rất lớn trong việc người lao động quyết định xuất cư và lựa chọn công việc khi đến tỉnh thành cũng như tương trợ nhau trong rủi ro.

Mỗi người có một bước ngoặt sẽ làm xoay chuyển cuộc mưu sinh của mình. Ở những địa phương chúng tôi tìm hiểu, vào dịp tết người cần lao thường đậu tiền, tổ chức một buổi tiệc “ăn xóm”. Ở đó họ gặp gỡ, hỏi thăm nhau, tìm nhịp việc làm hoặc đổi việc. Chính lúc đó họ quyết định ra đi. Hình thức tự phát này được nhiều người ưa chuộng vì không đòi hỏi giấy tờ, bằng cấp như khi đến các trọng điểm giới thiệu việc làm, thời gian chờ việc ngắn... Theo nhận xét của tôi, màng lưới phi chính thức này đang hỗ trợ người cần lao rất hiệu quả.

Những người đơn lẻ bị bắt cóc, bị lừa bán không có bước chuẩn bị này. Có thể họ xuất thân ở pha do cong trinh vùng ít có người lao động xuất cư, có thể màng lưới quan hệ tầng lớp của họ hẹp, hiểu biết về cảnh ngộ, xã hội kém hoặc cũng có thể họ chọn nhầm mạng lưới tương trợ kiểu như tin một ông xe ôm khi bước chân xuống bến. Trong số này có nhiều người chưa đến tuổi cần lao, đây là đối tượng bị bóc lột dã man nhất. Chúng tôi gọi đó là người cần lao đơn chiếc.

- Không thể phủ nhận những đóng góp của người cần lao xuất cư với nơi họ nhập cư và cả quê hương của mình. Nhiều người đã đóng góp rất nhiều cho gia đình, quê hương mình. Những khoản tiền họ gửi về quê trở thành giấc mơ đổi đời cho những người khác.

Để đổi lấy điều đó, họ phải tiện tặn, sống ở mức rất thấp của đô thị. Nếu nhìn lại và so sánh với những người đồng cảnh như vậy trong lịch sử, người lao động xuất thân từ nông thôn ngày xưa còn có mảnh vườn, thửa ruộng chờ đợi ở quê nhà. Người lao động bây giờ không có ruộng đất nữa. Lên đô thị, họ trơ trẽn mưu sinh, khi mất việc, về quê lại cũng đơn độc, thất nghiệp... Họ là những người nghèo đa diện: nghèo đất ở quê, nghèo trình độ để đi làm, nghèo vốn sống, quan hệ xã hội, thiếu khả năng đối phó với những cảnh huống bất trắc, rủi ro trong cuộc mưu sinh.

- Từ việc sử dụng mạng lưới hỗ trợ phi chính thức, người cần lao thường tìm đến những nơi dùng cần lao là hộ gia đình, tư nhân. Họ ký hiệp đồng miệng, quy định cần lao tự đặt, bị ép lương thấp, không bảo hiểm, không quyền lợi... Khu vực kinh tế hộ gia đình này là một lỗ hổng rất lớn trong quản lý quốc gia vì ít nhân công, không tạo ra làn sóng bãi khoá để gây để ý, nhưng đây là nơi người cần lao bị o ép nhất.

Quan niệm của người chủ dùng lao động thường coi người làm thuê như tôi đòi, ở xã hội thấp hơn mình, không có quan hệ bình đẳng, từ đó sinh ra tình trạng bóc lột. Đã có “cò” đi thu lượm lao động ở quê, nay lại có những người lừa bán họ như một món hàng... Như vậy, phải xác định việc trước tiên là Không thể trông đợi vào lòng tốt, lương tâm của chủ dùng lao động dù vẫn có những người rất tốt, mà phải có cơ chế pháp lý để giám sát thẳng băng khu vực kinh tế hộ gia đình nhằm bảo vệ người làm việc ở đây.

Thứ hai, việc tham vấn, cung cấp thông tin, giới thiệu việc làm cần được thực hiện ngay từ ở địa phương, nơi diễn ra “bước ngoặt trong cuộc mưu sinh” của người lao động. Mỗi năm, chính quyền địa phương nên có những nghiên cứu, tìm hiểu và thể hiện cho người dân một bức tranh về cơ cấu nghề, tránh “tính mùa vụ” trong chọn nghề.

Thứ ba, trên thực tế những cần lao xuất cư phần nhiều mang tâm lý “đi làm ít lâu rồi về”, ai có điều kiện, cơ hội tốt mới ở lại tỉnh thành. Ai cũng mong được trở về quê hương, nhưng về một thời kì không có việc làm, cơm ăn thì họ lại đi.

Để giải quyết vòng luẩn quẩn này phải có một cơ chế đồng bộ ở tầm nhà nước. Tỉ trọng nông nghiệp, công nghiệp phải được tâm tính kỹ. Chính quyền địa phương phải tìm cách giải bài toán: tài nguyên (đất) dư ra và lao động thiếu hụt. Tùy theo điều kiện thổ nhưỡng, đất đai, truyền thống để tìm ra hướng sản xuất, tạo việc làm cho người địa phương. Theo kinh nghiệm của tôi, các dự án nông nghiệp, kỹ nghệ phát triển từ truyền thống dễ cuộn cần lao địa phương hơn.

Các trường dạy nghề ở địa phương cũng cần đặt trọng tâm khai phá đặc điểm truyền thống, thế mạnh của địa phương mình, không đào tạo máy móc theo cơ cấu chung để rồi học viên lại không tìm được việc làm. Vừa rồi tôi có đến một trường trung cấp tư nhân ở Hố Nai (Biên Hòa, Đồng Nai), họ đào tạo những nghề rất thiết thực như nghề mộc - nghề truyền thống ở khu vực - rồi ký với nước ngoài để xuất khẩu sản phẩm, xuất khẩu cả cần lao... Đó là một mô hình rất tốt để người cần lao sống được trên quê hương mình.

Ông Lưu Quang Tuấn - Ảnh: Q.Thế
khung nhà xưởng cũ ÔngLƯU QUANG TUẤN(phó viện trưởng Viện Khoa học cần lao và tầng lớp):

Người lao động thiếu thông báo

- Thực tế hệ thống quản lý cần lao của VN vẫn chưa xây dựng được cơ sở dữ liệu ở địa phương. Nếu xây dựng được, dù chỉ ở cấp quận huyện thì địa phương nơi người cần lao đi - đến đều được quản lý, tránh được những rủi ro cho họ.

Bên cạnh đó là vai trò của các trọng tâm thông báo việc làm. Các tỉnh đều có trung tâm kiểu này, có tỉnh mỗi tháng tổ chức tới hai phiên chợ việc làm, nhưng tuồng như thông tin vẫn chưa tới được với cần lao nông thôn, nhất là những người chưa được đào tạo nghề, vì những người cần lao như vậy thường e dè và cho rằng những phiên chợ việc làm không phải dành cho họ. Trong điều kiện công nghệ phát triển như hiện giờ, đáng ra thông báo phải đến tận xã, phường qua điện thoại, loa truyền thanh, qua tờ rơi tờ gấp để người lao động có điều kiện tiếp cận.

Theo tôi, mô hình tốt là bên cạnh cung cấp thông báo còn cần cung cấp địa chỉ việc làm, thí dụ như cảnh báo người cần lao không đi làm việc qua “cò”, kèm theo thông báo cho họ địa chỉ nhà tuyển dụng thích hợp. Các cơ quan lao động việc làm cũng cần bộc lộ rõ hơn vai trò của mình như dự báo về tình hình việc làm ở các địa phương điểm đến, tỉ lệ lao động thiên cư tới làm việc cao, chẳng hạn như phía Bắc là Hà Nội, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, phía Nam là TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai, khu vực Tây nguyên... Về các tri thức cấp thiết để người lao động đỡ khó khăn khi di cư tìm việc làm.

LAN ANH - TÂY GIANGghi

Ông Lưu Quang Tuấn - Ảnh: Q.Thế
* ÔngLƯU QUANG TUẤN(phó viện trưởng Viện Khoa học lao động và từng lớp):

- Thực tiễn hệ thống quản lý cần lao của VN vẫn chưa xây dựng được cơ sở dữ liệu ở địa phương. Nếu xây dựng được, dù chỉ ở cấp quận huyện thì địa phương nơi người lao động đi - đến đều được quản lý, tránh được những rủi ro cho họ.

Bên cạnh đó là vai trò của các trọng điểm thông tin việc làm. Các tỉnh đều có trọng điểm kiểu này, có tỉnh mỗi tháng tổ chức tới hai phiên chợ việc làm, nhưng nghe đâu thông tin vẫn chưa tới được với cần lao nông thôn, nhất là những người chưa được đào tạo nghề, vì những người lao động như vậy thường e sợ và cho rằng những phiên chợ việc làm không phải dành cho họ. Trong điều kiện công nghệ phát triển như hiện giờ, lẽ ra thông tin phải đến tận xã, phường qua điện thoại, loa truyền thanh, qua tờ rơi tờ gấp để người cần lao có điều kiện tiếp cận.

Theo tôi, mô hình tốt là bên cạnh cung cấp thông báo còn cần cung cấp địa chỉ việc làm, tỉ dụ như cảnh báo người lao động không đi làm việc qua “cò”, kèm theo thông báo cho họ địa chỉ nhà tuyển dụng hợp. Các cơ quan cần lao việc làm cũng cần biểu thị rõ hơn vai trò của mình như dự báo về tình hình việc làm ở các địa phương điểm đến, tỉ lệ lao động di trú tới làm việc cao, chả hạn như phía Bắc là Hà Nội, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, phía Nam là TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai, khu vực Tây nguyên... Về các tri thức cần thiết để người cần lao đỡ khó khăn khi di trú tìm việc làm.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét